Băng huyết sau sinh là gì? Các công bố khoa học về Băng huyết sau sinh

Băng huyết sau sinh (BHSS) là mất máu nặng sau sinh, gây tử vong cao ở sản phụ. Có hai loại: nguyên phát (trong 24 giờ) và thứ phát (24 giờ - 12 tuần). Nguy cơ BHSS gồm tiền sử băng huyết, tổn thương khi sinh, nhau thai không đủ, sinh nhiều lần hoặc thai lớn. Triệu chứng gồm rối loạn chảy máu, suy nhược, mạch nhanh, da xanh. Điều trị cần nhanh chóng, thường gồm thuốc, can thiệp ngoại khoa, truyền máu. Phòng ngừa bằng theo dõi sức khỏe, chăm sóc đạt chuẩn, quản lý chuyển dạ. BHSS đòi hỏi chú ý đặc biệt trong phòng ngừa và điều trị.

Băng huyết sau sinh: Khái niệm và nguyên nhân

Băng huyết sau sinh (BHSS) là hiện tượng mất máu nặng xảy ra sau quá trình sinh con. Đây là một biến chứng rất nghiêm trọng và là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho các sản phụ trên toàn thế giới. Về cơ bản, có hai loại băng huyết sau sinh: băng huyết nguyên phát và băng huyết thứ phát. Băng huyết nguyên phát xảy ra trong vòng 24 giờ sau khi sinh, trong khi băng huyết thứ phát xuất hiện từ 24 giờ đến 12 tuần sau sinh.

Các yếu tố nguy cơ của băng huyết sau sinh

Có nhiều yếu tố được coi là nguy cơ dẫn đến băng huyết sau sinh, bao gồm:

  • Tiền sử băng huyết: Những người từng bị băng huyết sau sinh có nguy cơ tái phát cao hơn.
  • Tổn thương trong quá trình sinh nở: Các vết rách ở cổ tử cung, âm đạo, hoặc tầng sinh môn có thể gây mất máu nghiêm trọng.
  • Bong nhau thai không đủ: Khi nhau thai không được tách khỏi tử cung một cách hoàn toàn và dứt điểm.
  • Sinh nhiều lần hoặc thai quá lớn: Tử cung bị kéo dãn quá mức dẫn đến suy yếu trong khả năng co thắt để cầm máu sau sinh.

Triệu chứng và chẩn đoán băng huyết sau sinh

Triệu chứng chính của băng huyết sau sinh là rối loạn chảy máu sau khi sinh. Những dấu hiệu khác có thể bao gồm:

  • Suy nhược và chóng mặt do mất máu
  • Mạch nhanh, huyết áp giảm
  • Da xanh, lạnh và mồ hôi nhiều

Chẩn đoán băng huyết sau sinh dựa trên đánh giá lâm sàng và các triệu chứng, cùng với việc ước tính lượng máu đã mất.

Quản lý và điều trị băng huyết sau sinh

Quản lý băng huyết sau sinh đòi hỏi hành động nhanh chóng và hiệu quả. Điều trị thông thường bao gồm:

  • Chạy đua với thời gian: Nhanh chóng kiểm soát chảy máu bằng cách dùng thuốc co thắt tử cung, ví dụ như oxytocin.
  • Can thiệp ngoại khoa: Trong trường hợp thuốc không hiệu quả, có thể cần phải can thiệp ngoại khoa như thắt động mạch tử cung hoặc phẫu thuật cắt tử cung.
  • Hỗ trợ thể chất: Truyền máu và dịch thể để bù đắp lượng máu đã mất và hồi phục thể trạng cho sản phụ.

Phòng ngừa băng huyết sau sinh

Phòng ngừa BHSS là một yếu tố quan trọng trong chăm sóc sức khỏe bà mẹ gồm:

  • Theo dõi sức khỏe thường xuyên và chuẩn bị kế hoạch sinh nở đặc biệt cho những người có nguy cơ cao.
  • Đảm bảo dịch vụ chăm sóc trước và sau sinh đạt chuẩn, với sự giám sát của các chuyên gia y tế.
  • Sử dụng biện pháp quản lý chuyển dạ chủ động để ngăn ngừa nhau thai bám dính quá lâu sau sinh.

Băng huyết sau sinh là một tình trạng cấp cứu y khoa cần được chú ý đặc biệt trong cả hoạt động phòng ngừa và điều trị. Việc trang bị kiến thức cho cả các bà mẹ và đội ngũ y tế là rất cần thiết để giảm thiểu nguy cơ cũng như hậu quả của biến chứng này.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "băng huyết sau sinh":

Tổ chức y tế thế giới khuyến cáo sử dụng misoprostol trong sản phụ khoa
Tạp chí Phụ Sản - Tập 11 Số 4 - Trang 70 - 74 - 2013
Tổng quan: Misoprostol là một đồng vận Prostaglandin E1 có tác dụng gây co thắt tử cung và làm mềm cổ tử cung. Đã có một số lượng đáng kể các thử nghiệm ngẫu nhiên và các tổng quan hệ thống đánh giá về vai trò của Misoprostol trong lĩnh vực Sản phụ khoa. Misprostol hiện sẵn có ở trên 80 quốc gia, giá thành không đắt, ổn định ở nhiệt độ phòng, vì vậy đây có thể là một lựa chọn hữu dụng đặc biệt ở những quốc gia có nguồn lực còn hạn chế. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thừa nhận vai trò quan trọng của Misoprostol và đã đưa ra khuyến cáo hướng dẫn sử dụng tập trung chủ yếu vào 4 vấn đề sức khỏe sinh sản bao gồm: khởi phát chuyển dạ, phòng ngừa và điều trị băng huyết sau sinh, quản lý sẩy thai tự nhiên và phá thai. Phương pháp nghiên cứu và kết quả: Tất cả các hướng dẫn đưa ra đã được xây dựng và trình bày trong Cẩm nang Hướng dẫn của WHO (WHO handbook for guideline development). Quá trình này bao gồm: Xác định những thắc mắc ưu tiên và các kết quả quan trọng; thu hồi chứng cứ; đánh giá và tổng hợp các bằng chứng; xây dựng và thống nhất các khuyến cáo; kế hoạch phổ biến, thực hiện, đánh giá hiệu quả cũng như cập nhật. Báo cáo này tổng hợp các khuyến cáo về sử dụng Misoprostol phù hợp đối với mỗi hướng dẫn. Kết luận: Các tài liệu tham khảo hiện tại được thiết kế để các nhà lâm sàng và các nhà hoạch định chính sách có thể nhanh chóng đánh giá cũng như so sánh các khuyến cáo sử dụng Misoprostol trong các tình huống khác nhau.
#Sẩy thai #hướng dẫn #khởi phát chuyển dạ #Misoprostol #băng huyết sau sinh #khuyến cáo
Nghiên cứu áp dụng bóng chèn lòng tử cung trong dự phòng và điều trị băng huyết sau sinh tại Bệnh viện Sản Nhi Phú Yên năm 2013
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 1 - Trang 50-53 - 2014
Mục tiêu: Đánh giá tính hiệu quả và an toàn của phương pháp dùng sonde Foley làm bóng chèn lòng tử cung trong dự phòng và điều trị băng huyết sau sinh (BHSS) tại Bệnh viện Sản Nhi Phú Yên. Phương pháp: Hồi cứu 44 thai phụ được đặt bóng chèn để cầm máu sau sinh trong thời gian từ tháng 01/2013 đến tháng 09/2013 tại Phòng Sinh, Bệnh viện Sản Nhi Phú Yên. Kết quả: 44 thai phụ tuổi trung bình là 30 tuổi. Trong đó, 40 trường hơp (90%) đẻ đường âm đạo và 4 trường hơp (10%) sau mổ lấy thai. Đờ tử cung là nguyên nhân thường gặp (29 trường hơp). Bóng chèn được dùng dự phòng băng huyết cho 11 thai phụ có nguy cơ cao dự kiến sẽ dẫn đến BHSS. Foley được dùng trong 44 trường hơp, tỉ lệ thành công trên lâm sàng là 95,4% (42/44) 2 bệnh nhân trong nghiên cứu này buộc phải cắt tử cung để cầm máu. Kết luận: Bóng chèn lòng tử cung bằng sonde Foley là một phương tiện hiệu quả và an toàn trong việc kiểm soát BHSS nặng với tỉ lệ thành công gần 95 %.
Vai trò Carbetocin trong điều trị dự phòng băng huyết sau sinh
Tạp chí Phụ Sản - Tập 10 Số 3 - Trang 7-15 - 2012
Băng huyết sau sinh là một trong năm tai biến sản khoa, là nguyên nhân hàng đầu của gây tử vong mẹ, đặc biệt tỷ lệ này cao ở các nước đang phát triển. Một trong những Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ 2000 là giảm ¾ các trường hợp tử vong mẹ vào năm 2015. Để thực hiện được mục tiêu đó, điều tất yếu phải đạt được là giảm được tỷ lệ tử vong mẹ liên quan đến băng huyết sau sinh, và trọng tâm là ở các nước đang phát triển. Một trong những nguyên nhân hàng đầu gây băng huyết sau sinh là đờ tử cung do vậy các chiến lược hiện nay đang áp dụng trong dự phòng băng huyết sau sinh chủ yếu là sử dụng các thuốc tăng cường sự co bóp, co hồi tử cung sau mổ lấy thai và sau sinh đường âm đạo. Oxytocin hiện là thuốc được sử dụng rộng rãi trên thế giới trong dự phòng và điều trị băng huyết sau sinh tuy nhiên có thời gian tác dụng ngắn, do vậy bắt buộc phải sử dụng liên tục. Carbetocin là chất đồng vận của Oxytocin, đã được chúng minh có độ dung nạp tốt, an toàn và với thời gian tác dụng kéo dài. Các bằng chứng cho thấy liều sử dụng Carbetocin đơn liều đường tĩnh mạch có hiệu quả trong dự phòng băng huyết sau sinh ở sản phụ mổ lấy thai và những sản phụ sinh đường âm đạo có nguy cơ đờ tử cung cao. Với các kết quả đầy hứa hẹn từ các nghiên cứu, Carbetocin có thể trở thành thuốc được lựa chọn để phòng ngừa Băng huy ết sau sinh.
Nghiên cứu các nguyên nhân băng huyết sau sinh và kết quả điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận
Tạp chí Phụ Sản - Tập 20 Số 4 - Trang 50-55 - 2023
Mục tiêu: 1. Nghiên cứu tỷ lệ và nguyên nhân băng huyết sau sinh tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận. 2. Đánh giá kết quả xử trí băng huyết sau sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 131 sản phụ được chẩn đoán băng huyết sau sinh tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận từ tháng 6 năm 2020 đến tháng 6 năm 2021. Kết quả: Tỷ lệ băng huyết sau sinh ở sản phụ sinh đường âm đạo là 2,02%. Nguyên nhân hay gặp nhất gây BHSS là đờ tử cung với 83,2%, tiếp theo là chấn thương đường sinh dục với 9,9% và rối loạn bong sổ rau (6,9%). Kết quả điều trị: Hầu hết các trường hợp BHSS đều được điều trị nội khoa thành công, chiếm 97,7%; có 2,3% trường hợp cần phẫu thuật, trong đó phẫu thuật cắt tử cung toàn phần chỉ chiếm 0,8%, tương đương 01 trường hợp. Trong nhóm BHSS do đờ tử cung (n=109): điều trị nội khoa cho tỷ lệ thành công là 89%, đặt bóng chèn cho tỷ lệ thành công 80%, có 01 ca phải cắt tử cung toàn phần, chiếm 0,9%. Tỷ lệ nằm viện dưới 5 ngày là 86,3%, nằm viện trên 10 ngày chiếm 1,5%. Tất cả sản phụ BHSS đều được điều trị khỏi. Kết luận: Nguyên nhân thường gặp nhất của BHSS là đờ tử cung. Hầu hết các trường hợp được điều trị nội khoa thành công, tỷ lệ cần can thiệp phẫu thuật thấp.
#băng huyết sau sinh #đờ tử cung #sản khoa #Ninh Thuận
Nghiên cứu hiệu quả đặt bóng chèn lòng tử cung bằng sonde Foley điều trị băng huyết sau sinh
Tạp chí Phụ Sản - Tập 17 Số 1 - Trang 28 – 35 - 2019
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị và tính an toàn của phương pháp đặt bóng chèn lòng tử cung bằng sonde Foley trong xử trí băng huyết sau sinh không do tổn thương đường sinh dục tại bệnh viện Sản - Nhi tỉnh Quảng Ngãi. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu trên 43 sản phụ sau sinh ngã âm đạo được chẩn đoán băng huyết sau sinh không do tổn thương đường sinh dục và đã được điều trị nội khoa thất bại tại Khoa Sản - Bệnh viện Sản - Nhi tỉnh Quảng Ngãi, trong thời gian từ tháng 01 năm 2018 đến tháng 11 năm 2018. Thiết kế nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên không đối chứng. Sử dụng sonde Foley số 30 để làm bóng chèn lòng tử cung. Kết quả: Tỷ lệ thành công của phương pháp bóng chèn lòng tử cung trong xử trí băng huyết sau sinh không do tổn thương đường sinh dục là 95,35% (41/43). Thời gian trung bình chẩn đoán phương pháp bóng chèn lòng tử cung có hiệu quả cầm máu từ 10 đến 17 phút. Thời gian lưu bóng chèn lòng tử cung từ 6 đến 12 giờ. Lượng dịch bơm vào bóng chèn lòng tử cung từ 130 đến 200ml. Lượng máu mất thêm sau khi đặt bóng chèn lòng tử cung đến khi chẩn đoán phương pháp thành công từ 10 đến 50ml. Kết luận: Điều trị băng huyết sau sinh không do tổn thương đường sinh dục sau điều trị nội thất bại bằng phương pháp bóng chèn lòng tử cung là một phương pháp điều trị bảo tồn an toàn và hiệu quả.
#Băng huyết sau sinh #Sonde foley.
PHẪU THUẬT CẮT TỬ CUNG CẤP CỨU DO BĂNG HUYẾT SAU SINH NGÃ ÂM ĐẠO NẶNG TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Phân tích đặc điểm và kết cục các sản phụ phải phẫu thuật cắt tử cung cấp cứu do băng huyết sau sinh ngã âm đạo nặng tại Bệnh viện Từ Dũ. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu báo cáo loạt ca các trường hợp phẫu thuật cắt tử cung cấp cứu do băng huyết sau sinh ngã âm đạo nặng tại Bệnh viện Từ Dũ trong thời gian từ từ 1/8/2019 đến tháng 30/12/2019. Các đặc điểm được ghi nhận bao gồm: đặc điểm dịch tễ học, tiền căn sản phụ khoa, đặc điểm thai kỳ lần này, đặc điểm cuộc sinh và BHSS. Kết quả: Trong khoảng thời gian nghiên cứu 5 tháng, có 177 trường hợp băng huyết sau sinh ngã âm đạo nặng tại Bệnh viện Từ Dũ. Trong đó, chúng tôi trích lục được 7 trường hợp có phẫu thuật cắt tử cung cấp cứu để cứu mẹ sau khi các điều trị nội và ngoại khoa bảo tồn thất bại (chiếm 3,9%). Toàn bộ đều được điều trị cứu mạng mẹ thành công sau phẫu thuật cắt tử cung cấp cứu. Kết luận: BHSS nặng tuy chiếm tỉ lệ nhỏ nhưng là một nhóm bệnh cảnh quan trọng, góp phần lớn vào gánh nặng bệnh tật và tử vong do BHSS. Tuy đã có nhiều tiến bộ trong kĩ thuật y tế và phẫu thuật nhưng cắt tử cung cấp cứu vẫn là phương pháp điều trị quan trọng trong BHSS nặng không đáp ứng điều trị ban đầu.
#Băng huyết sau sinh #Cắt tử cung cấp cứu #Sinh ngã âm đạo.
Hiệu quả của Oxytocin truyền tĩnh mạch trong dự phòng băng huyết sau sinh
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 2B - Trang 24 - 26 - 2015
Mục tiêu: Xác định hiệu quả (lượng máu mất, tỷ lệ băng huyết sau sinh) của Oxytocin truyền tĩnh mạch so với tiêm bắp trong xử trí tích cực giai đoạn 3 chuyển dạ. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có đối chứng trên 460 thai phụ nhằm so sánh tỷ lệ băng huyết sau sinh, lượng máu mất sau sinh trong hai phác đồ: Phác đồ (1): 20 đơn vị oxytocin truyền tĩnh mạch. Phác đồ (2): 10 đơn vị oxytocin tiêm bắp; trong xử trí tích cực giai đoạn 3 chuyển dạ ở những sản phụ có không có nguy cơ BHSS sinh ngả âm đạo tại bệnh viện Từ Dũ trong năm 2012. Kết quả nghiên cứu: Lượng máu mất trung bình sau sinh ở nhóm truyền tĩnh mạch là 140,7ml ít hơn ở nhóm tiêm bắp (157,9ml) và sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê (p = 0,047). Tỷ lệ băng huyết sau sinh ở nhóm truyền tỉnh mạch là 1,7% và ở nhóm tiếm bắp là 3,9% tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa về mặt thống kê. Không xuất hiện tai biến và tác dụng phụ nghiêm trọng ở cả hai nhóm nghiên cứu. Kết luận: Truyền tĩnh mạch 20 đơn vị oxytocin trong xử trí tích cực giai đoạn 3 chuyển dạ an toàn và hiệu quả.
#băng huyết sau sinh #oxytocin #truyền tĩnh mạch
Cập nhật điều trị tranexamic acid trong băng huyết sau sinh
Tạp chí Phụ Sản - Tập 17 Số 1 - Trang 13 – 16 - 2019
Băng huyết sau sinh (BHSS) là nguyên nhân gây tử vong mẹ hàng đầu trên toàn thế giới, chiếm đến 1/4 tổng số trường hợp tử vong. Để làm giảm tỷ lệ BHSS cũng như giảm bệnh suất và tử suất liên quan đến BHSS, nhiều nghiên cứu và tổ chức đưa ra các khuyến cáo giúp tìm được giải pháp an toàn, kinh tế và dễ áp dụng trong điều kiện thực hành lâm sàng, đặc biệt là ở những nơi có nguồn lực hạn chế. Tranexamic acid (TXA) là một thuốc chống ly giải fibrin, trước đây được sử dụng giúp làm giảm lượng máu mất trong phẫu thuật được phát hiện vào những năm 1950 bởi Utako Okamoto - một bác sĩ sản phụ khoa người Nhật, sau đó, trải qua nhiều năm nghiên cứu và vẫn chưa được khuyến cáo mạnh trong điều trị BHSS. Nghiên cứu WOMAN - một thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, có nhóm chứng, được tiến hành từ tháng 03/2010 đến tháng 04/2016 trên gần 200 bệnh viện ở 21 quốc gia, thu nhận tổng cộng 20.060 sản phụ với chẩn đoán BHSS đã được công bố trên tạp chí Lancet vào tháng 04/2017 cho thấy vai trò của TXA khi được sử dụng sớm trong 3 giờ đầu sau khi xảy ra BHSS. Từ nghiên cứu này, vào ngày 01/11/2017, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khuyến cáo mạnh việc sử dụng sớm TXA – tiêm tĩnh mạch, trong vòng 3 giờ đầu trong thực hành chăm sóc chuẩn cho sản phụ được chẩn đoán BHSS cho sinh ngả âm đạo hay mổ lấy thai và đã được cập nhật vào khuyến cáo trong điều trị BHSS 2017 dành riêng cho TXA.
#nghiên cứu WOMAN #tranexamic acid #ly giải fibrin #chăm sóc chuẩn.
Một số cập nhật về xử trí nội khoa băng huyết sau sinh
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 3 - Trang 14-18 - 2015
Mục tiêu: Tổng hợp các nghiên cứu cập nhật thuốc tăng co được sử dụng trong băng huyết sau sinh, sử dụng như thế nào cho hiệu quả, an toàn và tiết kiệm. Phương pháp: phân tích tổng hợp so sánh các tiêu chí lâm sàng của các thuốc co tử cung khác nhau ở sản phụ sinh thường và sinh mổ. Kết luận: Carbetocin có tỷ lệ tác dụng phụ thấp tương đương với oxytocin và có hiệu quả ít nhất cũng ngang bằng với syntometrine, và có thể trở thành một thuốc co tử cung thay thế trong chảy máu sau sinh ở sản phụ sinh mổ hay sinh thường. Carbetocin là một thay thế tốt hơn cho oxytocin trong ngăn chảy máu sau sinh ở sản phụ sinh thường có yếu tố nguy cơ chảy máu sau sinh.
#chảy máu sau sinh #thuốc tăng co
Nghiên cứu giá trị tiên lượng băng huyết sau sinh sớm dựa vào mô hình kết hợp ở phụ nữ mang thai sinh đường âm đạo
Tạp chí Phụ Sản - Tập 22 Số 1 - Trang 33-44 - 2024
Mục tiêu: Đánh giá giá trị tiên lượng băng huyết sau sinh sớm ở phụ nữ mang thai sinh đường âm đạo dựa vào các mô  hình kết hợp CMQCC, AWHONN và ACOG.  Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thuần tập hồi cứu trên 1.655 sản phụ (trong tổng số 9.706 sản phụ) đến  sinh tại Khoa Phụ Sản Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 5/2020 đến tháng 6/2022, thoả mãn tiêu chuẩn chọn  bệnh: 1) Sản phụ mang thai có tuổi thai từ 22 tuần 0 ngày trở lên tính theo kinh cuối cùng hoặc dự kiến sinh theo siêu âm,  theo dõi nội trú; 2) Chuyển dạ tự nhiên hoặc khởi phát chuyển dạ và kết thúc bằng sinh đường âm đạo gồm sinh thường  hoặc sinh thủ thuật. Thu thập các yếu tố tiền sử, lâm sàng và cận lâm sàng, đánh giá và sắp xếp sản phụ vào phân tầng  nguy cơ theo ba bộ công cụ CMQCC, AWHONN và ACOG với 2 khoảng thời gian: 1) T1 là từ khi nhập viện theo dõi sinh và  cho đến kết thúc sổ thai (giai đoạn hai của chuyển dạ); 2) T2 là từ khi sau sổ thai và tính đến 1 giờ sau sinh. Số liệu được  nhập bằng phần mềm Epidata 3.0 và phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0  Kết quả: Đa số sản phụ trong nghiên cứu có độ tuổi từ 20 tuổi đến 34 tuổi. Sản phụ sinh con so, đơn thai, chuyển dạ tự  nhiên và sinh thường với tuổi thai từ 38 - 42 tuần chiếm đa số. Cân nặng trung bình của trẻ sau sinh là 3118,1 ± 434,6  gram. Băng huyết sau sinh sớm chiếm tỷ lệ 2,8%. Phân tầng nguy cơ băng huyết sau sinh: 1) Tại thời điểm T1, theo các bộ  công cụ CMQCC, AWHONN và ACOG: Phần lớn các sản phụ thuộc nhóm nguy cơ thấp, lần lượt là 93,0%, 90,1% và 93,6%;  2) Tại thời điểm T2, theo bộ công cụ CMQCC và ACOG: Nhóm nguy cơ thấp chiếm tỷ lệ cao nhất (87,6% và 88,1%), theo bộ  công cụ AWHONN: Nhóm nguy cơ trung bình có tỷ lệ cao nhất (78,6%). Bộ 3 công cụ CMQCC, AWHONN và ACOG đều cho  kết quả giá trị tiên đoán âm tính cao (trên 97,0% ở T1 và trên 99,5% ở T2) và khả năng cần truyền máu sau sinh (trên 91%  ở T1 và 80% ở T2).  Kết luận: Cả ba bộ công cụ CMQCC, AWHONN và ACOG đều cho kết quả giá trị tiên đoán âm tính cao ở hai thời điểm trước  và sau sinh, giúp loại trừ phần lớn trường hợp ít có khả năng băng huyết sau sinh sớm và khả năng cần truyền máu sau  sinh để tập trung nguồn lực theo dõi nhóm các sản phụ có yếu tố nguy cơ cao hơn. 
#băng huyết sau sinh sớm #đánh giá nguy cơ #giá trị tiên lượng #mô hình kết hợp
Tổng số: 12   
  • 1
  • 2